Suy niệm Lời Chúa Mt 25, 31-46 (Thứ hai tuần I Mùa chay B)
Cuộc phán xét tình yêu, đưa chúng ta trở về với thực tại chân đặt trên đất, đầu ngẩng lên nghe Chúa Kitô phán xét. Vương triều của Chúa Kitô rất khác với chuyên quyền trần thế, bởi tình yêu là tiếng nói cuối cùng còn tồn tại.
Chúa Giêsu cho chúng ta thấy ý nghĩa của vương quốc hay quyền lực là để phục vụ người khác. Người khẳng định rằng Người là Chúa, là Thầy (Ga 13,13), và là Vua (Ga 18, 37), nhưng Người đã thi hành chức năng Thầy của mình bằng cách rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,4 ), và trao ban mạng sống mình. Chúa là Vua cai trị bằng sự khiêm nhường nằm trong máng cỏ và bước lên ngai vàng là Cây Thập Giá.
Trên Thánh Giá có một bảng chữ viết rằng : “Giêsu Nagiarét, Vua dân Do Thái” (Ga 19, 19), cái bên ngoài khẳng định mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu cai trị trên cây Thánh Giá và phán xét chúng ta bằng tình yêu, như thánh Gioan Thánh Giá đã nói: “Anh chị em sẽ bị xét xử về tình Yêu”.
Với trang Tin Mừng hômnay, ta thấy Câu 31 mở đầu việc ngự đến trong vinh quang của Con Người có các Thiên Thần theo sau hầu hạ. Trước mặt Con Người là một đám đông hỗn độn gồm cả chiên lẫn dê. Và chính Con Người sẽ là người phân xử, tách biệt và lựa chọn: chiên ở bên này và bên kia là dê. Ở câu 32, tác giả đã nêu lên sứ vụ mục tử của Con Người. Người hiểu rõ và biết được sự khác nhau giữa chiên và dê. Đây là lúc vị mục tử sẽ phân loại bầy chiên dê hỗn tạp này, trong uy quyền và công bằng trong xét xử. Tiêu chuẩn của việc phân loại dựa trên lòng yêu mến của thần dân đối với Vua là cách đối xử của họ với anh em mình (c.40 và 45). Phần thưởng hay hình phạt đều dựa trên cách đối xử ấy.
Mở đầu lời nói mà Đức Vua dành cho những người thuộc bầy chiên mà Người chăn dắt rằng: “Những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từthuở tạo thiên lập địa (c. 34). Cách xưng hô của Đức Vua đủ cho chúng ta biết những người bên phải là người được Chúa Cha tuyển chọn và yêu thương. Họ được chúc phúc “ vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm. (c. 35-36). Đức Vua kể hàng loạt việc tốt, việc lành mà họ đã cư xử với những người anh em đồng loại mà được Ngài kể như là làm cho chính Ngài “ mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”
(c.40). Chính Ngài xác định người anh em bé nhỏ là hiện thân của Ngài trên trần gian. “ Người anh em bé nhỏ” mà chúng ta thấy Chúa nêu lên là: Người đói khát, người không có áo mặc, người không có nơi trú chân, người đau bệnh và người bị tù đày. Họ thuộc tầng lớp thấp kém trong xã hội, bị xã hội khinh khi, ruồng bỏ… Chính Chúa ở trong họ. Chính Chúa cần đến sự giúp đỡ, ân cần của chúng ta khi họ bị đói khát, bị bỏ rơi, bị xem thường. Chính Chúa cần chúng ta khi họ lang thang trên vỉa hè, đường phố trong những đêm giá lạnh, cô đơn. Chính Chúa cần đến chúng ta khi họ đang phải chống trả với những căn bệnh thời đại, bất trị. Chính Chúa cần chúng ta khi họ bị quên lãng trong chốn tù đày, bị xã hội gắn cho một cái mác “ đi tù về…” và họ sống trong mặc cảm không sao vươn lên để làm lại cuộc đời.
Từ câu 41-45, Thánh sử cũng chỉ lập lại những sự kiện, những câu hỏi đối đáp như trên, nhưng tình thế lật ngược 1800 chỉ vì cách cư xử khác biệt của “ những kẻ bên trái”. Danh từ những người được chúc phúc , được chuyển thành “quân bị nguyền rủa” và nơi chốn cũng thay đổi từ “ Vương quốc dọn sẵn” nay trở thành “chốn lửa đời đời, nơi dành cho Ác Quỷ và đồng bọn”.
Dụ ngôn kết thúc trong câu 46 đủ nói lên “cõi đi về” của mỗi người tuỳ theo cách họ cư xử với anh em đồng loại khi còn sống. Suốt dụ ngôn, chúng ta không hề thấy một lời van xin hay một cử chỉ thương xót. Lúc này chỉ còn sự công bằng, thưởng phạt mà thôi.
Chúa phán xét đến lòng thương xót đối với người nghèo. Chúng ta có giúp đỡ khi họ cần đến chúng ta chăng? Dụ ngôn người Samaritanô là một cách phán xét. Chúa sẽ phán xét thái độ biết tha thứ hay không: Kinh Lạy Cha và dụ ngôn hai người mắc nợ.
Chúa sẽ phán xét về thái độ đối với Ngài như thái độ đơn sơ của trẻ nhỏ, về lòng thống hối, nhất là về đức tin. Thánh Gioan và thánh Phaolô nhấn mạnh ngày phán xét là lúc quyết định tin hay không tin và là lúc Chúa phán xét chúng ta về thái độ đối với Lời Chúa.
“Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (c. 40). Ngài gọi những người khốn cùng trong xã hội là anh em nhỏ nhất của Ngài. Làm cho họ là làm cho chính Ngài, chối từ họ là chối từ chính Ngài. Chúng ta sẽ bị xét xử vào ngày tận thế dựa trên tình yêu. Hôm nay ta có thể gặp Đức Giêsu ở nhà thương, nhà tù, nơi trại tị nạn, nơi gần một tỷ người bị đói trên thế giới, nơi bao người thiếu nước sạch để dùng.Hãy kính trọng trao cho Ngài những gì mình đã chắt chiu.
Mỗi người sẽ được xét xử theo việc làm nghĩa là phải trả lẽ về những ơn mình đã nhận lãnh, chúng ta đã nhận mười nén bạc của Thiên Chúa ban như thế nào; Nén bạc đây hiểu là tất cả được gì? chúng ta là người và được làm con Chúa… Chúng ta sẽ được xét xử từ sự sinh thành cho đến của ăn, khả năng, thời gian, sức khỏe, tiền bạc… những biến cố, niềm vui nỗi buồn ở đời.
Thánh Phaolô cũng cho chúng ta thấy một tiêu chuẩn phán xét về việc làm. Vì chưng chúng ta sẽ phải xuất đầu lộ diện trước tòa Đức Kitô, để mỗi người lĩnh lấy thành quả đời mình trong thân xác xứng với các việc làm, việc lành hoặc dữ. Biết luật chưa đủ mà phải giữ luật, đức tin không việc làm là đức tin chết. Đức tin phải minh chứng bằng việc làm: “Ai gieo thứ gì thì gặt thứ ấy” (Gl 16, 6).
Dụ ngôn về “cuộc phán xét chung” là một trong chuỗi dụ ngôn có nội dung nói lên cách thức chuẩn bị biến cố cánh chung như thế nào và sự tỉnh thức Chúa đòi hỏi mỗi người để rồi chúng ta tự do để đáp trả lời phán xét của Chúa. Xin cho mỗi người chúng ta trong cuộc sống hiện tại hãy gieo yêu thương để chúng ta được đứng vào hàng ngũ bên phải của Chúa như những con chiên ngoan hiền.
Chúa Giêsu cho chúng ta thấy ý nghĩa của vương quốc hay quyền lực là để phục vụ người khác. Người khẳng định rằng Người là Chúa, là Thầy (Ga 13,13), và là Vua (Ga 18, 37), nhưng Người đã thi hành chức năng Thầy của mình bằng cách rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,4 ), và trao ban mạng sống mình. Chúa là Vua cai trị bằng sự khiêm nhường nằm trong máng cỏ và bước lên ngai vàng là Cây Thập Giá.
Trên Thánh Giá có một bảng chữ viết rằng : “Giêsu Nagiarét, Vua dân Do Thái” (Ga 19, 19), cái bên ngoài khẳng định mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu cai trị trên cây Thánh Giá và phán xét chúng ta bằng tình yêu, như thánh Gioan Thánh Giá đã nói: “Anh chị em sẽ bị xét xử về tình Yêu”.
Với trang Tin Mừng hômnay, ta thấy Câu 31 mở đầu việc ngự đến trong vinh quang của Con Người có các Thiên Thần theo sau hầu hạ. Trước mặt Con Người là một đám đông hỗn độn gồm cả chiên lẫn dê. Và chính Con Người sẽ là người phân xử, tách biệt và lựa chọn: chiên ở bên này và bên kia là dê. Ở câu 32, tác giả đã nêu lên sứ vụ mục tử của Con Người. Người hiểu rõ và biết được sự khác nhau giữa chiên và dê. Đây là lúc vị mục tử sẽ phân loại bầy chiên dê hỗn tạp này, trong uy quyền và công bằng trong xét xử. Tiêu chuẩn của việc phân loại dựa trên lòng yêu mến của thần dân đối với Vua là cách đối xử của họ với anh em mình (c.40 và 45). Phần thưởng hay hình phạt đều dựa trên cách đối xử ấy.
Mở đầu lời nói mà Đức Vua dành cho những người thuộc bầy chiên mà Người chăn dắt rằng: “Những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từthuở tạo thiên lập địa (c. 34). Cách xưng hô của Đức Vua đủ cho chúng ta biết những người bên phải là người được Chúa Cha tuyển chọn và yêu thương. Họ được chúc phúc “ vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm. (c. 35-36). Đức Vua kể hàng loạt việc tốt, việc lành mà họ đã cư xử với những người anh em đồng loại mà được Ngài kể như là làm cho chính Ngài “ mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”
(c.40). Chính Ngài xác định người anh em bé nhỏ là hiện thân của Ngài trên trần gian. “ Người anh em bé nhỏ” mà chúng ta thấy Chúa nêu lên là: Người đói khát, người không có áo mặc, người không có nơi trú chân, người đau bệnh và người bị tù đày. Họ thuộc tầng lớp thấp kém trong xã hội, bị xã hội khinh khi, ruồng bỏ… Chính Chúa ở trong họ. Chính Chúa cần đến sự giúp đỡ, ân cần của chúng ta khi họ bị đói khát, bị bỏ rơi, bị xem thường. Chính Chúa cần chúng ta khi họ lang thang trên vỉa hè, đường phố trong những đêm giá lạnh, cô đơn. Chính Chúa cần đến chúng ta khi họ đang phải chống trả với những căn bệnh thời đại, bất trị. Chính Chúa cần chúng ta khi họ bị quên lãng trong chốn tù đày, bị xã hội gắn cho một cái mác “ đi tù về…” và họ sống trong mặc cảm không sao vươn lên để làm lại cuộc đời.
Từ câu 41-45, Thánh sử cũng chỉ lập lại những sự kiện, những câu hỏi đối đáp như trên, nhưng tình thế lật ngược 1800 chỉ vì cách cư xử khác biệt của “ những kẻ bên trái”. Danh từ những người được chúc phúc , được chuyển thành “quân bị nguyền rủa” và nơi chốn cũng thay đổi từ “ Vương quốc dọn sẵn” nay trở thành “chốn lửa đời đời, nơi dành cho Ác Quỷ và đồng bọn”.
Dụ ngôn kết thúc trong câu 46 đủ nói lên “cõi đi về” của mỗi người tuỳ theo cách họ cư xử với anh em đồng loại khi còn sống. Suốt dụ ngôn, chúng ta không hề thấy một lời van xin hay một cử chỉ thương xót. Lúc này chỉ còn sự công bằng, thưởng phạt mà thôi.
Chúa phán xét đến lòng thương xót đối với người nghèo. Chúng ta có giúp đỡ khi họ cần đến chúng ta chăng? Dụ ngôn người Samaritanô là một cách phán xét. Chúa sẽ phán xét thái độ biết tha thứ hay không: Kinh Lạy Cha và dụ ngôn hai người mắc nợ.
Chúa sẽ phán xét về thái độ đối với Ngài như thái độ đơn sơ của trẻ nhỏ, về lòng thống hối, nhất là về đức tin. Thánh Gioan và thánh Phaolô nhấn mạnh ngày phán xét là lúc quyết định tin hay không tin và là lúc Chúa phán xét chúng ta về thái độ đối với Lời Chúa.
“Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (c. 40). Ngài gọi những người khốn cùng trong xã hội là anh em nhỏ nhất của Ngài. Làm cho họ là làm cho chính Ngài, chối từ họ là chối từ chính Ngài. Chúng ta sẽ bị xét xử vào ngày tận thế dựa trên tình yêu. Hôm nay ta có thể gặp Đức Giêsu ở nhà thương, nhà tù, nơi trại tị nạn, nơi gần một tỷ người bị đói trên thế giới, nơi bao người thiếu nước sạch để dùng.Hãy kính trọng trao cho Ngài những gì mình đã chắt chiu.
Mỗi người sẽ được xét xử theo việc làm nghĩa là phải trả lẽ về những ơn mình đã nhận lãnh, chúng ta đã nhận mười nén bạc của Thiên Chúa ban như thế nào; Nén bạc đây hiểu là tất cả được gì? chúng ta là người và được làm con Chúa… Chúng ta sẽ được xét xử từ sự sinh thành cho đến của ăn, khả năng, thời gian, sức khỏe, tiền bạc… những biến cố, niềm vui nỗi buồn ở đời.
Thánh Phaolô cũng cho chúng ta thấy một tiêu chuẩn phán xét về việc làm. Vì chưng chúng ta sẽ phải xuất đầu lộ diện trước tòa Đức Kitô, để mỗi người lĩnh lấy thành quả đời mình trong thân xác xứng với các việc làm, việc lành hoặc dữ. Biết luật chưa đủ mà phải giữ luật, đức tin không việc làm là đức tin chết. Đức tin phải minh chứng bằng việc làm: “Ai gieo thứ gì thì gặt thứ ấy” (Gl 16, 6).
Dụ ngôn về “cuộc phán xét chung” là một trong chuỗi dụ ngôn có nội dung nói lên cách thức chuẩn bị biến cố cánh chung như thế nào và sự tỉnh thức Chúa đòi hỏi mỗi người để rồi chúng ta tự do để đáp trả lời phán xét của Chúa. Xin cho mỗi người chúng ta trong cuộc sống hiện tại hãy gieo yêu thương để chúng ta được đứng vào hàng ngũ bên phải của Chúa như những con chiên ngoan hiền.
Tác giả bài viết: Sỏi đá ven đường