niềm tin

Trên đường loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu không những làm chứng về Tình Yêu Thiên Chúa đối với con người đau khổ thân xác lẫn tâm hồn, mà Ngài còn cho chúng ta thấy niềm tin của con người vào Thiên Chúa kể cả nơi những người dân ngoại. Mặc dầu chúng ta thấy trong Tin Mừng Matthêu, Chúa Giêsu ưu tiên và quan tâm đến những người Do Thái, thì ở đây, Luca lại nhấn mạnh về tình thương của Chúa Giêsu đối với dân ngoại, điển hình qua sự phó thác tin tưởng của viện đại đội trưởng mà Tình yêu Thiên Chúa đã xuống trên người nô lệ, đầy tớ của ông và chữa lành cách lạ lùng.

Mở đấu chương 7, thánh sử Luca giới thiệu công việc rao giảng của Chúa Giêsu trước khi Ngài  vào thành Ca-phac-na-um “sau khi nói hết những lời ấy…” nghĩa là sau một loạt các bài huấn từ với nhiều đề tài khác nhau như: yêu thương mọi người kể cả kẻ thù, xét bản thân trước khi xét người khác, cây nào sinh trái ấy và cần thực hành vì lời đã nghe, đã hiểu. “Nói hết những lời ấy” như muốn nói rằng những lời tâm quyết thì Chúa Giêsu đã dành cho dân Ngài. Khi Ngài vào thành bỗng xảy ra một sự cố: người nô lệ yêu quí của viên đại đội trưởng bị bệnh nặng. Ông chủ rất yêu quí người đầy tớ này. Ông lại là người có uy tín với người Do Thái. Ông sống đẹp lòng họ. Ông quan tâm đến họ, đến cả tôn giáo của họ nên đã cho tiền của xây dựng hội đường. (c. 5). Đây chính là điểm thu phục lòng dân. Ông đã dùng của cải để mua lấy tình bằng hữu. Bây giờ ông đang gặp khó khăn, thì chính những người kỳ mục Do Thái đến gặp Chúa Giêsu và nài xin Ngài chữa bệnh cho tên nô lệ của ông ta (c. 4).

Có lẽ đây là hình thức biết ơn của người Do Thái và cũng là sự tương giao tốt đẹp giữa người đô hộ và kẻ bị đô hộ, giữa người ngoại và người Do Thái mà chúng ta hiếm thấy trong Tin Mừng. Suy tư đến đây, tôi chợt nghĩ tới cảnh hoà bình trong vương quốc Thiên Chúa mà Is 11,6-8 nói đến “Sói ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ…”. Lời nài xin của người Do Thái như thuyết phục được Chúa Giêsu và Ngài ra đi theo yêu cầu của họ.

Khi Chúa Giêsu và phái đoàn đến gần nhà ông đại đội trưởng thì gặp nhóm bạn hữu của ông, do ông phái tới thân thưa rằng: “tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi” (c.6). Có lẽ ông cũng hiểu luật Môsê, người Do Thái không vào nhà dân ngoại vì sợ ô uế. Ở đây, ta cũng thấy lòng khiêm nhường của ông khi cho rằng mình không xứng đáng đón rước một bậc thầy trong dân Israel . Sự khiêm nhường này còn nói lên sự nhỏ bé, yếu đuối của con người trước quyền năng thần linh và ngày nay chúng ta vẫn nhắc lại lời này trước khi lên rước Mình Thánh Chúa.

Ta hãy nghe ông nói tiếp: “ Tôi không nghĩ mình xứng đáng đến gặp Ngài”. Khi ông ý thức về sự khiêm nhường của mình cũng là lúc ông nhận ra quyền năng của Đức Giêsu “xin Ngài cứ nói một lời, đày tớ của tôi được khỏi bệnh” (c.7). Ông liên tưởng và đưa dẫn chứng cụ thể bằng chính địa vị của mình. Ông nói: “Tôi có lính tráng dưới quyền của tôi: bảo họ đi, họ sẽ đi; bảo đến, họ sẽ đến”… nghĩa là những người ấy sẽ thi hành theo mệnh lệnh của ông vì ông có quyền hành trên họ. Niềm tin của ông vào Chúa Giêsu còn mãnh liệt và sâu sắc hơn người Do Thái. Ông tin rằng Chúa Giêsu có quyền trên bệnh tật, trên sự chết. Tên đầy tớ của ông đang bị bệnh, gần chết, nhưng nếu Chúa Giêsu ra lệnh đẩy lui bệnh tật, xua đuổi tử thần, thì chắc chắn đầy tớ của ông sẽ lành bệnh và không phải chết. Ông qui phục hoàn toàn trước quyền năng trên cao được ban cho một con người, mà dưới con mắt người trần, người đó là con dân mà ông đang cai trị.

Chúa Giêsu như đọc dược  hết ý nghĩa của một niềm tin có cơ sở vững chắc và một lòng khiêm tốn tin tưởng, Ngài tỏ ra thán phục và khẳng định: “Ngay cả trong dân Israel, chưa thấy người nào có lòng tin mạnh như thế” (c.9). Nhờ lòng tin này mà phép lạ đã xảy ra với người đầy tớ của ông ngay khi Chúa Giêsu nói những lời trên. Đó cũng là phần thưởng dành cho người công chính vì tin vào Đức Giêsu. “Người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính thì lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính” ( Rm 4,5).

Lạy Chúa Giêsu, ngày nay trên thế giới niềm tin của chúng con mong manh lắm. Có lúc chúng con tin vớ tin vẩn, bạ đâu thờ đấy. Vì thế, chúng con đã biến niềm tin của mình thành mê tín dị đoan. Nhưng trong chúng con cũng có những người kém lòng tin, yếu lòng tin, thậm chí còn đả phá chống đối niềm tin, gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mà thay thế bằng ngẩu tượng, vật chất của cải. Bên cạnh đó, chúng con lại mất tin tưởng nơi nhau, người nay nghi ngờ dò xét người kia, khiến cho bầu khí nghi kỵ, dè chừng nhau lại gia tăng. Xin cho chúng con biết sống thể hiện niềm tin, dù bị thiệt thòi, chống đối. Amen
Nữ Tỳ Thánh Thể.

Dieser Beitrag wurde unter Bai Viet veröffentlicht. Setze ein Lesezeichen auf den Permalink.

Die Kommentarfunktion ist geschlossen.