Nhà văn Anderson Đan mạch đã viết một câu truyện kể lại sự kiện xảy ra trong chính cuộc đời của ông. Câu truyện vắn tắt như sau: “ Vào một buổi tối mùa thu, ông đi dạo phố một mình tại thủ đô Copenhague. Ông bỗng nghe một giọng nói yếu ớt từ đằng sau vọng lại: “ Chú ơi, mua hộ cháu bao diêm.” Nhà văn quay lại, chợt nhận ra một đứa bé gái, gương mặt xanh xao, quần áo nhầu nát bẩn thỉu. “Chú ơi mua hộ cháu bao diêm, cả ngày cháu chưa bán được một xu nào.” Giọng cô bé thật buồn. Nó bùi ngùi kể lại hoàn cảnh đáng thương của nó. Mẹ chết sớm, con bé phải ở với một người cha nghiện ngập và khá cọc cằn, nhưng nó rất thương bố nó. Nó cố lê lết khắp nơi để bán diêm, kiếm chút tiền mang về cho bố những bữa ăn ngon. Anderson xúc động cho con bé ít tiền. Đứa bé sáng rực đôi mắt và thầm nghĩ nó sẽ mua về cho bố tối nay một ổ bánh mì thật ngon. “ Chú ơi sao chú tốt với cháu thế? Chú tên gì, và chú làm nghề gì ?” – Chú tên Anderson, và chú làm nghề này. Nhà văn lấy tay vẽ vào khoảng không hình một cái bút, ám chỉ ông là nhà văn. Đứa bé vẫn không hiểu tưởng ông làm nghề bán bút giống như nó đi bán diêm vậy. Anderson hẹn với đứa bé đầu năm tới, ông sẽ trở lại và cho nó một món quà, còn bây giờ ông phải đi xa.
Nhiều tháng trôi qua, Anderson quên mất lời hứa của mình. Một bữa nọ, tình cờ ông trở lại Copenhague và chợt nhớ tới đứa bé, mua cho nó một chiếc áo ấm, và đi tìm nó. Người chủ tiệm bên đường nói cho ông biết rằng con bé đã chết rồi. Ngày đầu năm, người ta thấy đứa bé nằm chết cóng bên đường không biết từ lúc nào. Nó nằm chết giữa một đống bao diêm, trong đó có một bao đã hết nhẵn. Có lẽ nó đốt diêm để sưởi cho bớt lạnh. Có điều, là khi nó chết, khuôn mặt vẫn còn hồng hào và dường như nó đang mỉm cười chờ đợi một cái gì đó.
Anderson đứng chết lặng. Người chủ tiệm nói tiếp, “ Khi mang xác nó đi người ta thấy trong túi áo của nó rơi ra một vật gì giống như chiếc quản bút làm bằng những que diêm. Chắc nó làm để tặng ai đó, vì trên quản bút có viết hàng chữ ‘tặng chú Anderson’.
Câu chuyện cảm động trên không phải là một câu chuyện hư cấu, nhưng là một kỷ niệm buồn trong chính cuộc đời của nhà văn. Câu chuyện này cũng giống như giai thoại về người đàn bà góa nghèo khổ mà thánh Marcô thuật lại trong Tin mừng hôm nay. Cô bé bán diêm và người đàn bà góa khá giống nhau. Giống nhau ở chỗ cả hai đều là những con người rất nghèo, bị xã hội bỏ rơi. Giống nhau cũng ở chỗ cả hai là những con người rất quảng đại, biết cho đi những gì mình có. Nhưng điểm giống nhau căn bản, vì họ là những con người tuy nghèo về vật chất, nhưng lại rất giàu về lòng nhân ái.
Thân phận bà góa: người nghèo của Giavê
Trong bài đọc một, tác giả sách Các Vua quyển thứ nhất cũng thuật lại giai thoại về một bà góa nghèo thành Sarepta. Người phụ nữ này đã trao tặng ngôn sứ Elia tất cả phần lương thực ít ỏi còn sót lại trong nhà. Lòng quảng đại đó đã được Thiên Chúa đền đáp: Hũ bột của bà không bao giờ vơi và bình dầu không bao giờ cạn. Vị tiên tri còn thực hiện phép lạ cứu sống đứa con trai của bà. Trong xã hội Do Thái khi xưa, những phụ nữ góa chồng bị xã hội gạt ra bên ngoài. Họ không có một quyền lợi gì về mặt xã hội. Nhưng ngay từ thời Môise, vị thủ lãnh đã ban hành lề luật là không được làm hại cô nhi, quả phụ (Đệ nhị luật 27, 19 ). Các ngôn sứ thường gọi các bà góa là những người nghèo của Giavê (anawim), tức là những con người được Thiên Chúa chúc phúc. Đặc biệt đến thời Chúa Giêsu, Ngài luôn lên tiếng bênh vực các bà góa, là những người thấp cổ bé họng trong xã hội. Hình ảnh của người đàn bà góa trong Tin mừng hôm nay là một minh dẫn cụ thể. Ngay cả người phụ nữ Samari, một người đàn bà ngoại giáo đã góa chồng và sống lang chạ với 5 người đàn ông khác, Chúa cũng không kết án và coi khinh chị. Ngược lại, Chúa kết án gay gắt thái độ giả hình của các đầu mục Do thái, làm ra vẻ đạo đức để moi hết tiền bạc của các bà góa ( Lc 20, 47; 7, 11 ). Chúa cho đứa con trai bà góa thành Naim sống lại cũng để diễn bày lòng thương cảm với những người đàn bà bị bỏ rơi trong xã hội thời bấy giờ (Lc 7,11-17). Ngôn sứ Anna, một phụ nữ góa chồng ngày đêm cư ngụ và phục vụ đền thánh, cũng là một hình ảnh nổi bật về mẫu người luôn được Thiên Chúa yêu thương và chúc lành.
Người đàn bà góa trong Tin mừng hôm nay được Đức Giêsu đề cao như một mẫu gương. Bà rất nghèo nhưng lại giàu lòng quảng đại. Điểm son nơi người phụ nữ này không phải là những danh giá xã hội hoặc sự giàu sang phú quý bên ngoài, nhưng chính là tấm lòng nơi bà. Chúa nói với các môn đệ “ Thầy bảo thật anh em, bà góa này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” ( Mc 12, 43 ).
Chẳng ai cho không cái gì
Người ta vẫn thường nói thế. Trong đời sống xã hội hiện nay, hầu như chẳng có ai cho không hoặc biếu không cái gì. Khi trao tặng một phần quà, ngay cả những món quà từ thiện, chúng ta dễ ngầm đặt ra điều kiện, ít nhất là để khoe khoang sự quảng đại của mình cho người khác thấy. Tính ích kỷ và keo kiệt là một nết xấu ai cũng có. Mỗi khi làm công tác từ thiện, nhiều cá nhân cũng như những tổ chức xã hội thường hay bày biện những hình thức rầm rộ, nào cờ xí, nào nghi thức, nào chụp hình đăng báo….Điều này vẫn xảy ra ngay cả nơi các tổ chức tôn giáo. Dâng cúng nhà thờ một bức tượng, một cái ghế đá… cũng phải được rao tên tuổi, phải được phát bằng ân nhân, khi chết giáo xứ phải xin lễ cầu nguyện để trả nghĩa v..v. Điều này không có gì đáng nói, nếu người cho không ngỏ ý mà người nhận tự nguyện biểu tỏ sự biết ơn. Nhưng, nhiều khi thói quen đó trở thành một căn bệnh chỉ nhằm để khoe khoang. Một vị linh mục khi đến tham dự lễ khánh thành tháp chuông tại một nhà thờ nọ, lúc nghe rao tên tuổi vị ân nhân đã khôi hài pha chút mỉa mai nói rằng: Chuông nhà thờ kêu rất sang và rất hay. Nó kêu “ Kiêu căng, kiêu căng” thay vì kính koong kính koong như các chuông nhà thờ khác. Chúng ta hãy từ từ đọc kỹ lại bài Tin mừng hôm nay để suy nghiệm điều này. Đức Giêsu trước khi quan sát người ta bỏ tiền vào hòm dâng cúng, đã cảnh báo các môn đệ: “ Anh em phải coi chừng những kinh sư ưa đi dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ thích chiếm chỗ nhất trong hội đường, thích ngồi chỗ danh dự trong đám tiệc” (Mc 12, 38 ). Trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu cũng đưa ra huấn dụ căn bản để giúp chúng ta nên hoàn thiện. Một trong những huấn dụ đó, là “ Khi anh em bố thí đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6, 3 ), tức là đừng khoe khoang, khua chiêng gõ mõ để đề cao cái tôi kiêu ngạo của mình.
Sự khoe khoang đi đôi với tính keo kiệt, tức là cho đi với điều kiện. Điều kiện là phải được công bố tên tuổi cho bàn dân thiên hạ được biết. Điều kiện là phải được nể trọng như một vị ân nhân. Song chúng ta rất dễ quên rằng, mọi sự chúng ta đang sử dụng đều là ân huệ của Thiên Chúa. Thiên Chúa là chủ còn chúng ta chỉ là người quản lý. Chúng ta hãy nhìn vào gương mẫu của người đàn bà góa hôm nay. Chúa đề cao lòng quảng đại của bà, chứ Ngài không ca ngợi những người giầu có hoặc cánh Pharisiêu đã bỏ ra những số tiền kếch xù thừa thãi chỉ để phô trương. Người Pharisiêu khoe với Chúa: “ Con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng cúng 1 phần mười tài sản của con”. Khi kể dụ ngôn này, chúng ta đều biết Chúa đã kết luận như thế nào.
Đức Giêsu, mẫu gương tuyệt hảo về lòng quảng đại
Nhiều người trong chúng ta, đặc biệt các tu sỹ tự nguyện sống nghèo như lời khấn đã cam kết với Chúa. Người đàn bà góa trong bài Tin mừng hôm nay cũng nghèo xác nghèo xơ. Gia sản duy nhất bà sở đắc chỉ là 2 đồng xu cỏn con. Nhưng, nói một cách sâu xa hơn, mẫu gương tuyệt hảo về tinh thần nghèo khó mà chúng ta phải học hỏi và sao chép, không ở đâu khác mà chính từ nơi Đức Giêsu. Không ai nghèo như Ngài và cũng không ai quảng đại bằng Ngài. Trong thư thứ 2 gửi giáo đoàn Côrinthô, thánh Phaolô đã viết: “ Đức Giêsu Kitô vốn giàu sang phú quý nhưng đã trở nên nghèo khó để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em nên giàu có” ( 2Cr 8, 9 ). Ngài tự nguyện sống kiếp con người, sinh ra trần trụi không nơi trú thân. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ gối đầu”. Cao điểm của sự nghèo khó nơi Ngài, là Ngài đã bị phơi thây chết trần trụi trên thập giá. Đôi tay Ngài dang rộng, không tích lũy bất cứ một thứ của cải nào. Nhưng cũng chính đôi tay ấy đã trao ban tất cả, ngay cả đến mạng sống để hiển thị điều mà Ngài đã nói với các học trò trong bữa tiệc ly: “ Không có tình yêu nào cao cả cho bằng mối tình của người hiến dâng sự sống cho bạn hữu”(Ga 15,13).
Hôm nay Chúa nêu ra mẫu gương về lòng quảng đại của một người đàn bà góa nghèo khổ. Đồng thời, Ngài cũng mời gọi chúng ta tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi Thập giá để trải nghiệm lòng quảng đại vô bờ bến mà chính Ngài đã diễn bày.
Đây là sứ điệp mà Lời Chúa hôm nay muốn khải thị. Một vị thánh đã nói: “ Không ai trong chúng ta nghèo đến mức độ không có gì để mà cho”. Chúa chẳng thèm để ý tới những món tiền kếch xù mà những người giàu có đã dâng cúng vào đền thờ, nhưng Ngài nhắc các học trò mẫu gương của một phụ nữ nghèo. Bà ta nghèo mạt rệp, chỉ có 2 xu, nhưng đã trao dâng tất cả. Một số tiền quá nhỏ, nhưng tấm lòng thật lớn.
Chúng ta nhớ lại trình thuật Chúa làm phép lạ nuôi sống năm ngàn người ăn no. Một đứa bé trao cho Chúa 5 cái bánh và 2 con cá, chẳng đáng giá bao nhiêu. Nhưng Đức Giêsu đã trọng thị đón nhận sự quảng đại của nó, và từ đó phép lạ đã xảy ra. Thiên Chúa không bao giờ lượng giá con người qua những hình thức và số lượng bên ngoài. Ngài biết rõ tâm can từng người. Đồng thời Ngài cũng không bao giờ thua kém lòng quảng đại của chúng ta.
Kết luận
Có một giai thoại trong cuộc đời thánh Phanxicô Assisi đã được nhà văn Nikos Kazantzakis viết thành tiểu thuyết. Sau khi Phanxicô đã cho đi tất cả của cải của mình, phân phát cho người nghèo, Ngài bắt đầu đi lang thang khất thực. Vị thánh vừa đi vừa hát. Một anh bạn cũ rất thân quen gặp lại Ngài đã rất ngỡ ngàng và hỏi: “Này Phanxicô, đôi giày đắt tiền, chiếc đồng hồ quý giá, quần áo sang trọng của anh đâu rồi?”. Phanxicô trả lời: “ Tất cả những thứ đó là của ma quỷ, tôi đã trả lại cho nó hết cả rồi.” Người bạn hỏi tiếp: “ Anh từ đâu lang thang đến đây và anh đang định đi đâu thế? – “Tôi đến từ một nơi rất xa và tôi cũng đang đi về nơi xa xăm ấy”. Người bạn lắc đầu không hiểu và hỏi tiếp: “ Thế tại sao anh vừa đi vừa hát nghêu ngao như một thằng điên?” – “Tôi hát để khỏi bị lạc đường.”
Là người đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng rất dễ lạc đường, nếu để cho của cải bủa vây. Điều quan trọng nhất là chúng ta dám bứt phá, dám phá đổ pháo đài ích kỷ của mình để biết quảng đại cho đi như người đàn bà góa trong bài Tin mừng hôm nay.
Văn Hào, SDB